Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
68-NQ/TW
|
|
Loại văn bản:
|
Nghị quyết
|
Nơi ban hành:
|
Ban Chấp hành Trung ương
|
|
Người ký:
|
Tô Lâm
|
Ngày ban hành:
|
04/05/2025
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Ngày 04/5/2025, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó, đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.Năm 2030, Việt Nam có 2 triệu doanh nghiệp, ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Theo đó, Nghị quyết 68 đặt mục tiêu đến năm 2030 như sau:
- Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.
- Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55 - 58% GDP, khoảng 35 - 40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84 - 85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm.
Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.
Tầm nhìn đến năm 2045: Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.
Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Xem chi tiết nội dung tại Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025.
BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
*
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số 68-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 04
tháng 5 năm 2025
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư
nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một
trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn
5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu
ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh
tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao
năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm
nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh,
khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn
đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng
lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của
kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực
tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới
sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa
cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do: Tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát
triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo
chưa được quan tâm đúng mức; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được
bảo đảm đầy đủ. Kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận
nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng
cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận;
chi phí kinh doanh còn cao.
Nhằm hiện thực hoá mục tiêu phát
triển đất nước như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra và đáp ứng yêu
cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức
và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh
mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực
mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia là cần thiết và cấp bách.
Từ tình hình trên, Bộ Chính trị
yêu cầu tập trung quán triệt, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nội
dung sau:
I- QUAN ĐIỂM CHỈ
ĐẠO
1. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của
nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc
làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững;
cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt
để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc
tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn
lên phát triển thịnh vượng.
2. Phát triển kinh tế tư
nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp
bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hoá trong các chiến lược,
chính sách phát triển của đất nước; nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải
phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực,
nhất là nguồn lực trong Nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và
tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế.
3. Xoá bỏ triệt để nhận thức,
tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam; đánh giá
đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với phát triển đất nước; nuôi
dưỡng, khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của người dân, doanh
nghiệp, tôn trọng doanh nghiệp, doanh nhân, xác định doanh nhân là người chiến
sĩ trên mặt trận kinh tế; bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh
doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, được tự do kinh doanh các ngành nghề pháp luật
không cấm; tạo dựng, củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân;
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nhân; bảo đảm kinh tế
tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ
hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ,
nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác của đất nước theo quy định của
pháp luật.
4. Tạo môi trường kinh
doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt
chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu. Kịp thời xây dựng,
hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư
nhân phát triển trong những lĩnh vực ưu tiên, đầu tư nghiên cứu phát triển, ứng
dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tham gia vào các nhiệm
vụ quan trọng, chiến lược của quốc gia và vươn tầm khu vực, thế giới; thúc đẩy
tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và làm giàu hợp pháp, chính đáng.
5. Tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể;
chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hoá kinh doanh,
bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo, nỗ lực vươn lên; tôn vinh, cổ vũ, phát
triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát
vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội.
II- MỤC TIÊU
1. Đến năm 2030
- Kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát
triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW,
ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.
- Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp
hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20
doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân của
kinh tế tư nhân đạt khoảng 10 - 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế; đóng góp khoảng 55 - 58% GDP, khoảng 35 - 40% tổng thu ngân sách nhà
nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84 - 85% tổng số lao động; năng suất lao động
tăng bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm.
- Trình độ, năng lực công nghệ, đổi
mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng
đầu khu vực châu Á.
2. Tầm nhìn đến năm 2045
Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển
nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu;
có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có
ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên
60% GDP.
III- NHIỆM VỤ,
GIẢI PHÁP
1. Đổi mới tư
duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân
tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân
- Nhất quán nhận thức của các cấp
uỷ, chính quyền, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân về vị
trí, vai trò của kinh tế tư nhân; củng cố niềm tin, khát vọng vươn lên và hành
động mạnh mẽ của kinh tế tư nhân Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Nhà nước kiến tạo,
phục vụ, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, không can thiệp
hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trái với nguyên tắc thị trường;
xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp cởi mở, thân thiện, đồng
hành, liêm chính phục vụ, kiến tạo phát triển.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông,
nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự
tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng,
hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ,
lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần
kinh doanh trong toàn xã hội. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa
thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.
2. Đẩy mạnh cải
cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu
hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình
đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân
2.1. Đẩy mạnh cải cách, hoàn
thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách
- Đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức
thực thi pháp luật bảo đảm nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm
thiểu sự can thiệp và xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế "xin -
cho", tư duy "không quản được thì cấm". Người dân, doanh nghiệp
được tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Quyền kinh
doanh chỉ có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, môi trường và sức khoẻ của cộng đồng và phải được
quy định trong luật.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường đảm bảo môi trường kinh doanh thông
thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp.
Minh bạch hoá, số hoá, thông minh hoá, tự động hoá, áp dụng triệt để trí tuệ
nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính, nhất
là về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng,
thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn... Trong năm
2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết,
quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư
nhân; thực hiện cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất
30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt
giảm mạnh trong những năm tiếp theo. Triển khai mạnh mẽ việc cung cấp dịch vụ
công cho doanh nghiệp không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Phấn đấu đến năm
2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thuộc nhóm 3 quốc gia hàng đầu
ASEAN và nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới.
- Chuyển từ nền hành chính công vụ,
quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh
nghiệp làm trung tâm; hiện đại hoá quản trị công, quản trị dựa trên dữ liệu. Thực
hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám
sát. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực
hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc
phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế. Sửa đổi Luật Phá sản, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục
pháp lý, mở rộng phạm vi áp dụng chế tài phá sản rút gọn; đẩy mạnh áp dụng thủ
tục tố tụng trên nền tảng điện tử, cải cách cơ chế xử lý tài sản. Thiết lập cơ
chế đánh giá, phản hồi về các rào cản, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán trong thực thi chính sách giữa
trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương với nhau.
- Thực hiện cơ chế thị trường,
không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong
huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản,
công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác. Rà soát, hoàn
thiện các chính sách thuế, phí, lệ phí theo hướng bảo đảm đối xử công bằng giữa
các thành phần kinh tế, giảm thuế suất, mở rộng cơ sở tính thuế, nhất là thu
thuế điện tử khởi tạo từ máy tính tiền; nghiêm cấm lạm dụng quyết định hành
chính, hành vi bảo hộ cục bộ của ngành, địa phương. Xử lý nghiêm các hành vi
làm hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và cạnh
tranh không lành mạnh.
- Hoàn thiện khung pháp lý cho các
mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, đặc biệt là
công nghệ tài chính, trí tuệ nhân tạo, tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hoá, tiền
mã hoá, thương mại điện tử... Có cơ chế thử nghiệm đối với những ngành, lĩnh vực
mới trên cơ sở hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoàn thiện pháp luật,
chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kết nối,
chia sẻ, khai thác dữ liệu, bảo đảm an ninh, an toàn.
- Tạo mọi thuận lợi trong giải quyết
thủ tục hành chính; phân công, phân cấp, phân nhiệm rõ ràng giữa các cấp, ngành
của từng cơ quan, đơn vị, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong giải quyết
thủ tục hành chính. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, trục lợi cá nhân,
nhũng nhiễu của cán bộ, công chức; đồng thời, có cơ chế miễn trừ trách nhiệm đối
với trường hợp đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định liên quan, không tư
lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng có thiệt hại do rủi ro khách
quan.
- Có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ các
cam kết quốc tế; bãi bỏ lệ phí môn bài; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 3 năm đầu thành lập; bố trí đủ nguồn lực từ ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương cho các chương trình, chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp, kết hợp huy động nguồn lực từ các quỹ đầu tư của các doanh nghiệp,
hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, viện nghiên cứu, trường đại học... Tăng cường
vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nhân trong tham gia góp ý, phản biện chính
sách, bảo đảm thực chất, hiệu quả, minh bạch.
- Đẩy mạnh phát triển thị trường
trong nước, kích cầu tiêu dùng, đa dạng hoá các kênh phân phối, phát triển mạnh
các nền tảng số, thương mại điện tử; triển khai thực chất, hiệu quả Cuộc vận động
"Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; nâng cấp, đổi mới chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân xây dựng và quảng
bá thương hiệu. Khuyến khích phát triển các tập đoàn bán lẻ tư nhân; có chính
sách ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
tham gia chương trình, kế hoạch, dự án mua sắm công phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nâng cao năng lực thực thi, tận dụng các cam kết quốc tế và có cơ chế hỗ trợ hiệu
quả giải quyết tranh chấp quốc tế cho khu vực kinh tế tư nhân...
- Cập nhật và chuẩn hoá hệ thống
chỉ tiêu, số liệu thống kê, cơ sở dữ liệu về kinh tế tư nhân để phục vụ cho
công tác đánh giá, hoạch định chính sách, chiến lược phát triển phù hợp cho từng
giai đoạn. Có cơ chế phù hợp chia sẻ hệ thống dữ liệu cho các cơ quan, tổ chức
nghiên cứu, tư vấn, phản biện chính sách.
2.2. Bảo đảm và bảo vệ hữu
hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình
đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật thực
thi hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, rút
ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng. Có cơ chế đặc thù để xử lý các dự
án, hợp đồng tồn đọng kéo dài nhiều năm, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã
hội, cản trở quá trình phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, song song với
việc xác định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân
có liên quan theo quy định của pháp luật; chấm dứt tình trạng cơ quan nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo các hợp đồng đã
ký với các doanh nghiệp tư nhân. Tăng cường tính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả
của toà án kinh tế, trọng tài thương mại trong xử lý các tranh chấp thương mại
quốc tế bảo đảm nhanh chóng, công bằng, khách quan, bình đẳng.
- Rà soát, hoàn thiện và thực thi
hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở
hữu trí tuệ và tài sản vô hình; giảm thiểu rủi ro pháp lý. Có chính sách hỗ trợ
định giá, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước; hỗ trợ khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
Có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhất là vi phạm
trên không gian thương mại điện tử. Bảo đảm thực hiện trực tuyến toàn trình thủ
tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, cắt giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục
yêu cầu cấp quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Chấm dứt tình trạng thanh tra,
kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài, không cần thiết; bảo đảm nguyên tắc chỉ
thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm 1 lần đối với doanh nghiệp, trừ trường hợp
có bằng chứng rõ ràng về việc doanh nghiệp vi phạm; xử lý nghiêm các hành vi lạm
dụng thanh tra, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Xây dựng
hệ thống dữ liệu và công cụ trí tuệ nhân tạo cảnh báo sớm về các nguy cơ vi phạm
pháp luật. Ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán. Triển khai thanh tra, kiểm tra trực tuyến, ưu tiên thanh tra, kiểm
tra từ xa dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm thanh tra, kiểm tra trực tiếp. Miễn
kiểm tra thực tế đối với các doanh nghiệp tuân thủ tốt quy định pháp luật.
2.3. Tuân thủ nguyên tắc
phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự; giữa pháp nhân và cá
nhân trong xử lý vi phạm
- Sửa đổi các quy định về pháp luật
hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự để bảo đảm nguyên tắc khi xử
lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về
dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được
chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật
có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng
xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc
phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử
lý tiếp theo. Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh
nghiệp. Đối với các vụ việc thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng phải sớm có
kết luận, tránh ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường
của doanh nghiệp, doanh nhân. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá
trình điều tra, xét xử các vụ án.
- Bảo đảm việc niêm phong, kê biên
tạm giữ, phong toả tài sản liên quan đến vụ việc, vụ án phải theo đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục, phạm vi, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức; bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong toả tương ứng với
dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án.
- Phân biệt rõ tài sản hình thành
hợp pháp với tài sản có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên
quan đến vụ án; giữa tài sản, quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp của cá nhân những
người quản lý trong doanh nghiệp. Cho phép sử dụng hợp lý các biện pháp cần thiết
để bảo đảm giá trị tài sản liên quan đến vụ án, giảm thiểu tác động của điều
tra đến hoạt động sản xuất - kinh doanh, sau khi có ý kiến thống nhất của các
cơ quan tố tụng và không ảnh hưởng đến hoạt động điều tra.
3. Tạo thuận lợi
cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng
cao
3.1. Tăng cường cơ hội tiếp
cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho kinh tế tư nhân
- Đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo thuận
lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có cơ
chế, chính sách phù hợp kiểm soát biến động giá đất, đặc biệt là giá đất sản xuất
kinh doanh, phi nông nghiệp, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư, sản
xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Chậm nhất trong năm 2025, hoàn thành xây dựng
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai kết nối với Trung tâm dữ liệu quốc gia và các
cơ sở dữ liệu có liên quan. Thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai;
công khai, minh bạch và chủ động cung cấp thông tin tới doanh nghiệp; giảm thiểu
thời gian giải quyết thủ tục thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hỗ
trợ tích cực trong giải phóng mặt bằng.
- Cho phép các địa phương sử dụng
ngân sách địa phương để hỗ trợ chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, vườn ươm công nghệ, trên cơ sở yêu cầu, các chủ đầu tư dành một phần
quỹ đất đã đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê. Các địa phương căn cứ vào tình hình thực
tế, xác định quỹ đất đối với từng khu công nghiệp, cụm công nghiệp đảm bảo bình
quân tối thiểu 20 ha/khu, cụm công nghiệp hoặc 5% tổng quỹ đất đã đầu tư kết cấu
hạ tầng dành cho các doanh nghiệp nêu trên. Nhà nước có chính sách giảm tối thiểu
30% tiền thuê lại đất cho các đối tượng này trong vòng 5 năm đầu kể từ ngày ký
hợp đồng thuê đất. Khoản tiền thuê đất được giảm được hoàn trả cho chủ đầu tư
thông qua việc khấu trừ tiền thuê đất mà chủ đầu tư phải nộp theo quy định của
pháp luật; có chính sách hỗ trợ về hạ tầng mặt bằng sạch, điện, nước, giao
thông, thông tin liên lạc, thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp sử dụng công
nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo.
- Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc đối với các dự án vướng thủ tục, chậm tiến độ; đưa vào khai thác nguồn lực
đất đai bị lãng phí, đất công, trụ sở cơ quan không sử dụng, đất trong các vụ
việc tranh chấp, vụ án kéo dài. Có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thuê nhà, đất là
tài sản công chưa sử dụng hoặc không sử dụng tại địa phương.
3.2. Đẩy mạnh và đa dạng hoá
nguồn vốn cho kinh tế tư nhân
- Rà soát, hoàn thiện cơ chế,
chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Có chính sách ưu tiên một phần nguồn
tín dụng thương mại để dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ
và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vay
để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và
tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng. Khuyến khích các tổ chức tài
chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh
doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền,
chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm bao gồm cả động sản, tài sản vô
hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.
- Đẩy mạnh phát triển tín dụng
xanh; Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng
giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần
hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).
- Rà soát khuôn khổ pháp lý, hoàn
thiện mô hình các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả trung
ương và địa phương; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính, các
doanh nghiệp lớn bảo lãnh cho các khoản vay của các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chấp
nhận rủi ro do điều kiện khách quan, bất khả kháng trong hoạt động bảo lãnh; thực
hiện quản lý theo mục tiêu tổng thể; quy định mức trích quỹ dự phòng tài chính
hợp lý, nới lỏng điều kiện cấp bảo lãnh so với điều kiện vay vốn ngân hàng; có
cơ chế bổ sung nguồn lực, chính sách bảo hiểm hợp lý bảo đảm an toàn hệ thống.
Nghiên cứu thành lập quỹ tái bảo lãnh và các mô hình bảo lãnh chéo, đồng bảo
lãnh...
- Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế
hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng,
đơn giản hoá, minh bạch hoá, số hoá điều kiện, quy trình, thủ tục tiếp nhận, thẩm
định, cho vay và giải ngân vốn; đa dạng hoá nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
đóng góp từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế...; khẩn
trương bổ sung chức năng, nhiệm vụ đầu tư vào các quỹ đầu tư địa phương và các
quỹ đầu tư tư nhân để tăng nguồn cung vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tài trợ vốn mồi cho các dự án khởi nghiệp, cho vay
khởi nghiệp; xây dựng vườn ươm và hỗ trợ khởi nghiệp. Khuyến khích mô hình đồng
tài trợ của các quỹ trung ương, địa phương, tư nhân và các tổ chức tài chính,
tín dụng nhằm chia sẻ rủi ro và tăng mức ưu đãi cho các khoản vay đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Rà soát, sửa đổi bổ sung các quy
định về hoạt động của các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi để đa dạng hoá
nguồn cung tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa
đổi khung pháp lý về hoạt động của công ty cho thuê tài chính theo hướng mở rộng
danh mục tài sản cho thuê, trong đó có tài sản phi truyền thống như phần mềm,
quyền khai thác, tài sản trí tuệ, dữ liệu. Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có
kiểm soát về cho vay ngang hàng, về sàn giao dịch gọi vốn cộng đồng để kết nối
trực tiếp doanh nghiệp nhỏ và vừa với cá nhân, tổ chức tài trợ vốn.
- Kết nối, chia sẻ thông tin giữa
các hệ thống ngân hàng, thuế và các cơ quan có liên quan, bảo đảm liên thông,
chia sẻ dữ liệu về tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp, đánh giá
tình hình mức độ tín nhiệm và chấm điểm tín dụng của doanh nghiệp từ phía các tổ
chức tín dụng, các quỹ tài chính và các tổ chức xếp hạng tín dụng thứ ba để
tăng cường cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh.
- Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng
lực quản trị, xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, chuẩn mực, chuẩn hoá chế độ
kế toán, kiểm toán, thực hiện các giải pháp tăng uy tín và khả năng tiếp cận
các nguồn lực tài chính.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra,
giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động cấp tín dụng;
kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay phục vụ hệ sinh thái nội bộ.
- Rà soát, hoàn thiện chính sách
thuế, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư góp vốn của các quỹ đầu tư vào doanh
nghiệp; tăng hạn mức đầu tư vào tài sản dài hạn hoặc tài trợ vốn trong cơ cấu vốn
của doanh nghiệp; thiết lập cơ chế huy động vốn trung và dài hạn cho các quỹ đầu
tư. Nghiên cứu cho phép các định chế đầu tư tài chính mở rộng khả năng huy động
vốn từ các nguồn như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí tự nguyện để phát triển
thị trường vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp tư nhân.
- Khẩn trương nâng hạng, tái cơ cấu
thị trường chứng khoán, phát triển thị trường bảo hiểm, hoàn thiện quy định về
trái phiếu doanh nghiệp để nâng cao chất lượng và mở rộng kênh huy động vốn ổn
định, chi phí thấp cho kinh tế tư nhân. Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về chứng
khoán hoá các khoản nợ.
3.3. Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho kinh tế tư nhân
- Tập trung các nguồn lực phát triển
mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp chất lượng cao, ngành nghề trọng
điểm. Khuyến khích phát triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài,
nhân rộng, chuyển giao các chương trình đào tạo tiên tiến phục vụ phát triển
kinh tế tư nhân.
- Đổi mới phương thức đánh giá,
công nhận tốt nghiệp có sự tham gia của doanh nghiệp đối với các chương trình
chất lượng cao. Hỗ trợ, khuyến khích hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng của
doanh nghiệp và thu hút doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào đào tạo nhân lực.
Chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp được tính vào chi phí
được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thực hiện hiệu quả chương trình
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân; khuyến
khích các địa phương sử dụng các nguồn lực hợp pháp của mình để hỗ trợ chủ động
các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực phù hợp định hướng phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
- Triển khai chương trình đào tạo,
bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia
đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho
đội ngũ doanh nhân.
- Thúc đẩy giáo dục, đào tạo các kỹ
năng sáng tạo, STEM, ngoại ngữ, kỹ năng số trong tất cả các bậc học đáp ứng yêu
cầu nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới
sáng tạo, khởi nghiệp.
4. Thúc đẩy
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh
doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân
- Triển khai quyết liệt Nghị quyết
số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính
trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
quốc gia trong khu vực kinh tế tư nhân.
- Ban hành khung pháp lý thử nghiệm
có kiểm soát (sandbox) đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh
doanh mới; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu
và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công
nghệ tài chính, y tế thông minh...
- Cho phép các doanh nghiệp được
tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp đối với hoạt
động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế của hoạt động này. Có
chính sách hỗ trợ chi phí đầu tư mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ, chi phí thực
hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh bền vững, tuần hoàn thông qua
cơ chế khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc tài trợ qua các quỹ.
- Doanh nghiệp được trích tối đa
20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển. Doanh nghiệp
được sử dụng quỹ để tự triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài
theo cơ chế khoán sản phẩm.
- Doanh nghiệp, tổ chức tư nhân được
sử dụng phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm, phòng hỗ trợ thiết kế và thiết bị
nghiên cứu dùng chung, trung tâm thử nghiệm, đo lường, kiểm định, giám định của
Nhà nước để phát triển sản phẩm với mức phí hợp lý.
- Có chính sách miễn, giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản
lý quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo
kể từ thời điểm phát sinh thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Miễn thuế thu nhập
cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức đối với khoản thu
nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo. Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia, nhà khoa học làm
việc tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển,
trung tâm đổi mới sáng tạo, các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo.
- Nhà nước ưu tiên nguồn lực hỗ trợ
đầu tư phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo phục vụ ươm tạo phục vụ cho
các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển và chuyển giao các công nghệ
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.
5. Tăng cường
kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp FDI
- Xây dựng các chuỗi liên kết
doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Khuyến khích các
doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hộ kinh doanh. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành, nhất là
công nghiệp hỗ trợ, chế biến chế tạo, chế biến nông sản, thực phẩm, công nghệ
thông tin, công nghiệp sáng tạo. Xác định việc doanh nghiệp lớn chuyển giao
công nghệ, hỗ trợ thử nghiệm sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, kiến thức và đào tạo
nguồn nhân lực, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nhỏ và vừa là một
tiêu chí quan trọng để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Chi phí đào tạo
và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
tham gia chuỗi được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế
khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Khuyến khích các tổ chức tài
chính, tín dụng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo chuỗi
giá trị, chuỗi cung ứng.
- Khẩn trương triển khai các chính
sách hỗ trợ về nghiên cứu phát triển, đào tạo, tư vấn, xúc tiến thương mại,
chuyển giao công nghệ,... Hỗ trợ doanh nghiệp đạt các chứng chỉ, chứng nhận đáp
ứng tiêu chuẩn ngành theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu, tham gia chuỗi giá
trị, chuỗi cung ứng. Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ tư vấn, xúc tiến thương mại để
kết nối các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa tại các khu công nghiệp,
khu kinh tế trọng điểm, khu thương mại tự do.
- Áp dụng tỉ lệ nội địa hoá phù hợp
theo lộ trình trong các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, ưu tiên; đặt vấn
đề các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ
giai đoạn phê duyệt dự án. Hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật
đã làm việc tại doanh nghiệp FDI nhằm tận dụng kinh nghiệm, kiến thức, mô hình
quản trị, mối quan hệ với các doanh nghiệp FDI để tham gia vào chuỗi cung ứng.
6. Hình thành
và phát triển nhanh các doanh nghiệp lớn và vừa, các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm
cỡ khu vực và toàn cầu
- Mở rộng sự tham gia của doanh
nghiệp tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia; Nhà nước chủ động có chính
sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu hoặc có chính sách ưu đãi
khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia cùng Nhà nước vào các lĩnh vực
chiến lược, các dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng quốc
gia (như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, công nghiệp mũi nhọn, hạ tầng
năng lượng, hạ tầng số, giao thông xanh, công nghiệp quốc phòng, an ninh...),
những nhiệm vụ khẩn cấp, cấp bách. Có giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân đầu
tư mở rộng và phát triển cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao, phát
triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp giải trí.
- Đa dạng hoá, nâng cao hiệu quả
các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thông qua các mô
hình hợp tác công tư (PPP), lãnh đạo công - quản trị tư, đầu tư công - quản lý
tư, đầu tư tư - sử dụng công, trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng
văn hoá - xã hội, công nghệ thông tin, truyền thông trên cơ sở lấy hiệu quả
kinh tế - xã hội làm thước đo để lựa chọn. Khẩn trương xây dựng, triển khai
Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học
công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ.
- Xây dựng, triển khai Chương
trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global), tập trung hỗ trợ về thị trường, vốn,
công nghệ, thương hiệu, kênh phân phối, logistics, bảo hiểm, thưởng thành tích
xuất khẩu, tư vấn, pháp lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, mua
bán sáp nhập, kết nối với các tập đoàn đa quốc gia...
7. Hỗ trợ thực
chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh
- Rà soát, hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kinh doanh cá thể; thu hẹp tối đa sự chênh lệch, tạo mọi điều kiện
thuận lợi về tổ chức quản trị và chế độ tài chính, kế toán để khuyến khích hộ
kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Đẩy mạnh số hoá, minh bạch hoá, đơn
giản hoá, dễ tuân thủ, dễ thực hiện đối với chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm... để
khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Xoá bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất trong năm 2026.
- Cung cấp miễn phí các nền tảng số,
phần mềm kế toán dùng chung, dịch vụ tư vấn pháp lý, đào tạo về quản trị doanh
nghiệp, kế toán, thuế, nhân sự, pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ
kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
- Thực hiện hiệu quả Chiến lược
tài chính toàn diện quốc gia, thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm
tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh
nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu
số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo tác động
xã hội.
8. Đề cao đạo
đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh
doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước
- Xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo
đức, văn hoá kinh doanh, trung thực, thanh liêm, trách nhiệm xã hội, gắn với bản
sắc dân tộc, tiếp cận tinh hoa văn hoá kinh doanh thế giới, mang trong mình
khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng. Lấy đạo đức,
văn hoá kinh doanh làm cốt lõi, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Đánh giá
doanh nghiệp tư nhân theo chuẩn quốc tế dựa trên các tiêu chí cốt lõi về: (1) Mức
độ tuân thủ pháp luật. (2) Giải quyết công ăn việc làm. (3) Đóng góp vào ngân
sách nhà nước và (4) Tham gia các hoạt động an sinh xã hội.
- Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp
trong toàn xã hội; nuôi dưỡng và khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới
sáng tạo của mọi người dân. Khẩn trương đưa chương trình đào tạo khởi nghiệp
kinh doanh vào các cơ sở giáo dục, đào tạo, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi
nghiệp, khởi sự kinh doanh trong học sinh, sinh viên.
- Tôn vinh, biểu dương, khen thưởng
các doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững,
thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng.
Huy động đội ngũ doanh nhân xuất sắc, có tâm, có tầm tham gia quản trị đất nước.
- Thiết lập mối quan hệ giữa các cấp
uỷ đảng, chính quyền với doanh nghiệp chặt chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở,
chân thành, trong đó các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động, tận tuỵ giải
quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp tư nhân theo chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề vượt thẩm
quyền; đồng thời phát huy vai trò góp ý, phản biện chính sách của doanh nghiệp,
hiệp hội doanh nghiệp trung thực, kịp thời, đúng bản chất các vấn đề khó khăn,
vướng mắc; nghiêm cấm việc thao túng, trục lợi chính sách, lợi dụng, làm tha
hoá cán bộ, công chức.
- Doanh nghiệp tư nhân, doanh nhân
cần chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, năng động, sáng tạo, giữ vững bản lĩnh,
nuôi dưỡng ý chí, khát vọng, không ngừng học hỏi, nâng cao năng lực, phẩm chất,
trình độ, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, nỗ lực phấn đấu vươn lên, làm giàu
chính đáng và đóng góp cho quê hương, đất nước.
- Không ngừng củng cố, nâng cao
vai trò, chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội, các tổ chức
đại diện cho doanh nghiệp, doanh nhân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của doanh nghiệp, doanh nhân; tham gia xây dựng, phản biện và giám sát việc
thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước.
- Cần có chính sách cụ thể, khả
thi trong xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phát triển Đảng
trong doanh nghiệp, doanh nhân và có cơ chế, quy định phù hợp đối với tổ chức Đảng
trong doanh nghiệp để những người ưu tú trong doanh nghiệp đứng vào hàng ngũ của
Đảng.
IV- TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Đảng uỷ Quốc hội lãnh đạo,
chỉ đạo rà soát, hoàn thiện pháp luật về phát triển kinh tế tư nhân; tăng cường
giám sát việc thực hiện theo quy định.
2. Đảng uỷ Chính phủ: (1)
Chỉ đạo xây dựng trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt
ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV (tháng 5/2025); xây dựng Chương trình
hành động triển khai thực hiện Nghị quyết. (2) Phối hợp với Đảng uỷ Quốc hội kịp
thời thể chế hoá đầy đủ các chủ trương, chính sách nêu tại Nghị quyết này và bố
trí đủ nguồn lực để triển khai thực hiện, ban hành Nghị quyết của Quốc hội về
phát triển kinh tế tư nhân ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV với các cơ
chế, chính sách ưu đãi cụ thể, khả thi, hiệu quả. (3) Chủ trì chuẩn bị tài liệu
quán triệt cùng với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tổ chức quán triệt
ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù.
3. Đảng uỷ các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xây dựng
kế hoạch hành động với các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình phù hợp và phân công cụ
thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện.
4. Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch hướng
dẫn, vận động Nhân dân thực hiện Nghị quyết, phát huy vai trò giám sát, phản biện
xã hội, tham gia xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế
tư nhân.
5. Ban Tuyên giáo và Dân vận
Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng uỷ Chính phủ, các cơ quan liên quan tham
mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức quán triệt và tăng cường tuyên truyền, phổ
biến nội dung Nghị quyết.
6. Đảng uỷ Chính phủ chủ
trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng,
các đảng uỷ trực thuộc Trung ương và địa phương theo dõi, đánh giá kết quả thực
hiện Nghị quyết; báo cáo Bộ Chính trị để chỉ đạo những vấn đề phát sinh và đòi
hỏi của thực tiễn.
Nghị quyết này phổ biến đến chi bộ./.
Nơi nhận:
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
- Các đồng chí Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Các ban đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương,
- Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Tô Lâm
|
Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 về phát triển kinh tế tư nhân do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
THE
CENTRAL COMMITTEE
*
|
THE
COMMUNIST PARTY OF VIETNAM
---------------
|
No. 68-NQ/TW
|
Hanoi, May 04, 2025
|
RESOLUTION OF THE POLITBURO
REGARDING PRIVATE SECTOR DEVELOPMENT After nearly
40 years of renovation, Vietnam’s private sector has gradually developed in
both quantity and quality, becoming one of the key drivers of the
socialist-oriented market economy. Currently, the private sector comprises over
940 thousands enterprises and over 5 millions household businesses in
operation, contributing approximately 50% of the GDP, over 30% of total state
budget revenue, and employing about 82% of the total workforce. It plays an
important role in promoting economic growth, creating employment, driving
innovation, improving labor productivity, enhancing national competitiveness,
contributing to poverty reduction, and stabilizing social life. Many private
enterprises have grown significantly, established their strong brands, and
reached out to regional and global markets. However,
the private sector still faces numerous barriers that hinder its development.
It has yet to make a breakthrough in scale and competitiveness and remains
unable to fully meet the expectations of becoming a core pillar of the national
economy. Most private enterprises are micro, small, and medium-sized, with
limited financial capacity and weak governance. The majority lack advanced
technology and innovation capabilities; their productivity, operational
efficiency, and competitiveness remain low; moreover, their business thinking
often lacks strategic vision and connectivity with state-owned enterprises and
foreign-invested enterprises. There
are several reasons behind this situation, primarily an incomplete and underdeveloped
perception of the private sector's position and role in the national economy;
regulatory and institutional frameworks that remain inadequate and
inconsistent; insufficient attention paid to leadership and direction; and
insufficient guarantees for property rights and business freedom. The private
sector also encounters difficulties in accessing key resources, especially
capital, technology, land, natural resources, and high-quality personnel.
Several incentive and support policies remain ineffective and difficult to
access; meanwhile, business costs remain high. In order
to realize the national development objectives set forth in the Resolution of
the 13th National Congress of the Communist Party of Vietnam and respond to
Vietnam's development demands of the new era, it is necessary to find
comprehensive, breakthrough, and integrated solutions to transform mindset,
harmonize awareness and actions, thereby further promoting the role of the
private sector, strengthening trust, and creating new momentum for economic
development, growth promotion, and enhancement of national competitiveness. Given
the above situation, the Politburo requires focused efforts to drastically,
uniformly, and effectively implement the following key contents: I- GUIDING PRINCIPLES ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. 2. The rapid, sustainable, efficient, and high-quality
development of the private sector is not only an urgent and key task but also a
long-term strategic objective. It should be concretized in national development
strategies and policies to fully leverage potential and advantages, unleash the
entire productive force, and effectively mobilize and utilize all resources,
especially those from the People, for socio-economic development, enhancement
of national defense, security, foreign affairs, and international integration. 3. Completely eliminate outdated perceptions, biases,
attitudes, and prejudices against Vietnam's private sector; accurately
recognize the private sector's vital role in national development; foster and
encourage entrepreneurial spirit and innovation of the people and enterprises;
respect enterprises and business people, recognize business people as economic
warriors; sufficiently guarantee property rights, business freedom, the right
to fair competition, and the freedom to engage in all business lines not
prohibited by law; built and strengthen the trust between the State and the
private sector; protect the lawful rights and interests of enterprises and
business people; ensure the fairness in accessing business opportunities and
economic resources between the private sector and other economic sectors,
especially capital, land, technology, personnel, data, and other lawful
national resources as prescribed by law. 4. Create a business environment that is open, transparent,
stable, safe, easy to comply with laws, low-cost, and conforms to international
standards, ensuring regional and global competitiveness. Promptly develop and
improve the regulatory framework and breakthrough mechanisms and policies to
encourage private sector development in prioritized sectors, including R&D,
science and technological application, innovation, digital transformation, and
participation in key national strategic tasks, regional and global reachout;
vigorously promote entrepreneurial and innovative spirit, digital
transformation, and legitimate and justifiable wealth creation. 5. Enhance the leadership role of the CPV and the
facilitating role of the State, consider enterprises as key entities. Focus on
training and developing a force of business people who have ethical, business
culture, bravery, intellect, dynamism, and creativity, and perseverance. Honor,
encourage, and develop such force with patriotism, national pride, aspiration
for contribution, strict abidance by laws, and active fulfillment of social
responsibility. II- OBJECTIVES 1. By
2030 -
Vietnam's private sector will be the most important driver of the national
economy; serve as a pioneering force in the development of science and
technology, innovation, and digital transformation, making contributions to the
successful implementation of Resolution No. 57-NQ/TW dated December 22, 2024 of
the Politburo and other CPV's policies and guidelines. - There
will be 2 million enterprises operating in the economy, equivalent to 20
enterprises per 1,000 people. At least 20 large enterprises participate in
global value chains. -
Vietnam's private sector will have the average annual growth rate that reaches
approximately 10–12%, higher than the overall economic growth rate; contribute
about 55–58% of GDP, about 35–40% of total state budget revenue, and create
employment for about 84–85% of the total workforce; labor productivity will
increase by about 8,5 – 9,5% per year on average. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. 2.
Orientations toward 2045 Vietnam's
private sector will develop in a rapid, strong, and sustainable manner;
actively participate in global production and supply chains; and possess high
regional and international competitiveness. By 2045, there will at least 3
million enterprises operating in the economy, contributing over 60% of GDP. III- TASKS AND SOLUTIONS 1. Transform mindset, reaching a high unity in awareness
and actions; foster trust and national aspirations, creating new momentum and
driving forces for private sector development - Ensure
consistent awareness among all CPV committees, Government, the entire political
system, the business community, and the people regarding the private sector's
position and role; strengthen trust, aspirations for advancement, and bold
actions from Vietnam’s private sector in the new era. The State shall
facilitate, serve, and support the rapid and sustainable development of the
private sector, refrain from administrative interference in production and
business activities contrary to market principles; build open, friendly,
companionable, and integrity-based relations between the Government and
enterprises aimed at development. -
Increase publicity campaign to raise awareness and drive actions; inspire the
entrepreneurial spirit, start-up spirit, confidence, self-reliance, and
national pride among all citizens to promote robust private sector development.
Media and press agencies must improve the quality and effectiveness of
communication in an objective, accurate, and comprehensive manner; encourage
and disseminate good models, innovative and effective practices, and foster a
strong entrepreneurial spirit across society. Any harassment, misconduct, or
dissemination of false or inaccurate information that negatively impacts
enterprises and business people is strictly forbidden. 2. Intensify reform, perfect
institutions and policies and enhance the quality thereof, effectively
guarantee and protect ownership, property rights, business freedom, the right
to fair competition of the private sector, and guarantee the contract
performance of the private sector Intensify
reform, perfect institutions and policies and enhance the quality thereof - Change
the lawmakers and law enforcers' mindset to ensure that the economy operates as
a socialist-oriented market one; use market-based instruments to regulate the
economy; reduce intervention and eliminate administrative barriers,
"favoritism", and decisively refrain from the tendency to ban things
instead of putting them under control. People and enterprises may be free to
engage in business lines not prohibited by law. Business rights may only be
restricted for national defense, national security, social order and safety,
social morality, environmental protection, and public health, and must be
stipulated by law. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. - Change
from the management-centric public administrative to the one towards serving
and facilitating development, placing people and enterprises at the center;
modernize public management and data-based management. Drastically shift from
"pre-inspection" to "post-inspection" in association with
intensified inspection and supervision. Shift the management of the eligibility
for business from grant of licenses and certificates to disclosure the eligibility
for business and post-inspection, except for a few business lines requiring
licensing in accordance with laws and international practices. Make amendments
to the Law on Bankruptcy, shorten the duration for legal procedures and expand
the scope of application of simplified bankruptcy procedures; increase the
application of electronic legal proceedings and reform the property disposal
mechanism. Establish mechanisms for assessing and responding to obstacles in
production and business activities. Address inconsistencies in policy
implementation between central authorities and local authorities, among
ministries, central authorities, and among local authorities. -
Implement market mechanisms without discrimination between enterprises of all
economic sectors in mobilizing, allocating, and using capital, land, natural
resources, property, technology, personnel, data, and other resources. Review
and improve policies on taxation, fees, and charges towards fair treatment
across economic sectors, reduction of tax rates, broadening of the tax base,
especially e-tax transactions generated by POS cash registers; strictly
prohibit the abuse of administrative decisions and protectionism by central and
local authorities. Strictly handle anti-competitive practices, abuse of
dominant or monopolistic positions, and unfair competition. -
Perfect the regulatory framework for new economic models, technology- and
digital platform -based business, especially financial technology, artificial
intelligence, virtual property, virtual currencies, tokenized property,
cryptocurrencies, and e-commerce, etc. Establish pilot mechanisms for new
business lines on the basis of post-inspection and in conformity with
international practices. Perfect laws and policies on data and data management,
facilitating enterprises in connecting, sharing, and using data while assuring
security and safety. -
Facilitate administrative procedures; clearly establish the hierarchy of
responsibilities and powers among levels and sectors of each agency and unit; define
the responsibilities of heads in handling administrative procedures. Strictly
handle corruption, personal profiteering, and harassment by officials;
meanwhile, introduce immunity mechanisms for those who cause damage due to
objective reasons without person gain despite all procedures and regulations
have been complied with. -
Introduce special mechanisms and policies to assist small and medium-sized
enterprises (SMEs) in accordance with market principles and international
commitments; remove registration fees; exempt corporate income tax for SMEs
during their first three years of operation; allocate sufficient funding from
central-government and local-government budgets for enterprise support programs
and policies, and mobilize additional funding from investment funds of
enterprises, business associations, industry associations, research institutes,
and universities. Encourage the private sector and business people to comment
on and criticize policies in a practical, effective, and transparent manner. -
Increase the development of the domestic market, stimulate consumption,
diversify distribution channels, and develop digital platforms and e-commerce;
effectively implement the campaign “Vietnamese people prioritize using
Vietnamese goods”; upgrade and renew the national trade promotion program;
assist private enterprises in brand building and promotion. Encourage the
development of private retail corporations; adopt preferential policies for
SMEs and startups to participate in public procurement programs, plans, and
projects in accordance with international practices. Improve implementation
capacity, effectively use international commitments, and introduce mechanisms
to support the effective dispute settlement for the private sector. - Update
and standardize indicators, statistical data, and databases on the private
sector to serve assessment and planning of polices and strategies for each
development phase. Introduce appropriate mechanisms to share data for agencies
and organizations to research, consulate, and critique of policies. 2.2.
Effectively guarantee and protect ownership, property rights, business freedom,
the right to fair competition of the private sector, and guarantee the contract
performance of the private
sector - Perfect
the legal system for contract performance and dispute settlement in the
business and commercial sectors; shorten the duration for settlement of
contractual disputes. Alongside determining the roles and responsibilities of
relevant agencies, organizations, units, and individuals in accordance with the
law, introduce specific mechanisms for handling projects and contracts that
have persisted for many years, causing loss and waste of social resources and
hindering the development of private enterprises; eliminate delays in payment
for concluded contracts with private enterprises by state agencies and
state-owned enterprises. Improve transparency, effectiveness, and efficiency of
economic courts and commercial arbitration in settlement of international commercial
disputes, ensuring rapid, fair, objective, and equal settlement. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. -
Eliminate overlapping, duplicating, prolonged, and unnecessary inspections and
examinations; only conduct 01 inspection and examination on each enterprise per
year, except for cases where there is clear evidence of such enterprise's
violations; strictly handle entities that abuse the inspection and examination
power to harass or cause difficulties for enterprises. Develop a data system
and artificial intelligence tools for issuance of early warning of legal
violations. Promote digital transformation in inspection, examination, and
audit activities. Conduct online inspections and examinations, prioritize
remotely conducting inspections and examinations on the basis of electronic
data, and reduce physical ones. Do not conduct physical examinations for
enterprises with good compliance records. 2.3.
Comply with the principle of clear distinction between criminal liability with
administrative and civil liabilities; between legal entities and individuals in
handling violations - Make
amendments to criminal code, civil code, criminal procedure code, and civil
procedure code to ensure that in handling civil and economic violations and
cases, civil, economic, and administrative measures shall be prioritized to
enable enterprises and business people to proactively remedy misconduct and
damages. Do not initiate criminal prosecution if it can be avoided. Economic
remedies shall be prioritized and the remediation results will serve as a key
basis for considering subsequent handling measures if the criminal prosecution
is mandatory. Legal regulations must not be applied retroactively to impose
adverse consequences on enterprises. If evidence is lacking or unclear,
conclusions must be made promptly to avoid affecting the credibility and normal
business operations of enterprises and business people. Follow the principle of
presumption of innocence during the investigation and adjudication of lawsuits. - Ensure
that the sealing, distraint, temporary seizure, or freezing of property
involved in the cases are conformable with prescribed competence, procedures,
scope without infringing upon the rights and legitimate interests of
individuals and organizations; ensure that the value of such property is
equivalent the estimated damage of the case. -
Clearly distinguish between lawfully acquired property with those derived from
legal violations, other property concerning lawsuits; between the property,
rights, and obligations of enterprises and executives of such enterprises.
Allow the reasonable application of necessary measures to ensure the value of
property involved in the cases and reduce the impact of investigations on
production and business activities, provided that there is prior agreement among
procedural agencies and such measures do not hinder the investigation. 3. Facilitate the private sector's access to land, capital,
and high-quality human resources 3.1.
Increase opportunities for the private sector to have access to land and
premises for production and business -
Intensify the digital transformation, facilitate the private sector’s
access to land and premises for production and business. Introduce appropriate
mechanisms and policies to control fluctuations in land prices, especially prices
of land used for non-agricultural production and business, in order to minimize
adverse impacts on enterprises’ investment and business plans. Completely
develop the National Land Database connected with the National Data Center and
other relevant databases by 2025. Facilitate e-transactions of land; ensure
transparency and proactive provision of information to enterprises; shorten the
duration for processing applications for land lease and the issuance of land
use right certificates; and actively support site clearance activities. - Allow
administrative divisions to use their local-government budget for providing
financial assistances for infrastructure investors of industrial parks,
industrial clusters, and technology incubators, provided that investors must
lease out a part of the land fund on which infrastructure has been invested to
high-tech enterprises, small- and medium-sized enterprises (SMEs), and
startups. Administrative divisions shall, based on their actual conditions,
determine the land fund allocated for each industrial park or cluster, ensuring
a minimum average land fund of 20 hectares per industrial park or cluster or at
least 5% of the total land fund on which infrastructure has been invested for
such enterprises. The State shall introduce a policy on reduction of at least
30% of land rents for these enterprises during the first five years from the
date on which a lease agreement is concluded. The reduced land rents shall be
deducted from land rents payable by infrastructure investors in accordance with
law. Introduce support policies on clean premises with ready-to-use
infrastructure, electricity, water, transportation, telecommunications, and
administrative procedures for high-tech enterprises, SMEs, supporting industry
enterprises, and startups. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. 3.2.
Increase and diversify capital sources for the private sector - Review
and perfect credit mechanisms and policies applicable to the private sector.
Introduce a policy to prioritize granting commercial credit loans to
private enterprises, particularly SMEs, supporting industry enterprises, and
startups for making investment in machinery, equipment, new technologies, green
and digital transformation, export credit, and supply chain credit. Encourage
financial and credit institutions to grant loans on the basis of assessment of
production and business methods and market expansion plans, data, cash flow,
value chains, assessment of collateral, including movable property, intangible
property, off-the-plan property, and grant unsecured loans. -
Promote the development of green credit. The State shall introduce mechanisms
for the interest rate support and encourage credit institutions to reduce loan
interest rates for private enterprises executing green, circular projects and
applying environmental, social, and governance (ESG) standards. - Review
the regulatory framework and perfect the model of credit guarantee funds for
SMEs at both central and local levels; encourage participation of financial
institutions and large enterprises in granting guarantee to loans of SMEs;
accept risks arising from objective or force majeure events during grant of loan
guarantee; manage under overall objectives; provide reasonable amount set aside
for the financial reserve fund and loosen eligibility requirements for grant of
loan guarantee compared to those for grant of bank loans; and introduce
mechanisms for supplementing resources and appropriate insurance policies to
ensure system safety. Research the establishment of re-guarantee funds and
mutual or co-guarantee models. -
Perfect the regulatory framework and operational mechanisms of the SME
Development Fund towards expansion of eligible enterprises, simplification,
transparentization, digitalization of the eligibility requirements and
procedures for receiving and appraising loan applications, granting loans, and
disbursing thereby; diversify capital sources funded from the state budget and
donated by domestic and international enterprises, organizations, and
individuals, etc.; urgently add functions and tasks of making investment into
local and private investment funds with aiming to increase capital supply for
SMEs and startups; finance seed capital for entrepreneurship projects, grant
loans used for entrepreneurship; develop incubators and support
entrepreneurship. Encourage co-financing models of central, local, and private
funds, financial and credit institutions with aiming to share risks and enhance
loan incentives for SMEs. - Review
and make amendments to the regulations on operations of non-depository
institutions to diversify credit sources for enterprises, especially SMEs. Make
amendments to the regulatory framework on the operation of financial leasing
companies to expand the list of leasable property, including non-traditional
property such as software, exploitation rights, intellectual property, and
data. Promulgate a regulatory sandbox for peer-to-peer lending and crowd
funding platforms to directly connect SMEs with individuals, organizations
financing capital. -
Connect and share information among banking and taxation systems and relevant
agencies to ensure data interoperability and sharing regarding enterprises’
operation and finance. Assess and score credit of enterprises by credit
institutions, financial funds, and third-party credit rating agencies to
increase the grant of loans to SMEs and household businesses. - Assist
enterprises in enhancing their management capacity, developing transparent and
standardized financial systems, standardizing accounting and auditing regimes,
and implementing solutions to improve their credibility and facilitate greater
access to financial resources. -
Increase inspection, examination, and strict supervision over the operation of
credit institutions and credit extension; strictly control intra-group lending
activities. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. -
Urgently upgrade and restructure the securities market, develop the insurance
market, and perfect regulations on corporate bonds to enhance the quality and
expand stable and low-cost capital mobilization channels for the private
sector. Research and develop a regulatory framework on the securitization of debts. 3.3.
Improve the quality of human resources for the private sector - Gather
resources for developing a network of high-quality higher education
institutions, vocational and training education institutions, and key
disciplines. Encourage the development of joint training programs with foreign
partners, replicate and transfer advanced training programs with a view to
develop the private sector. - Reform
graduation recognition and assessment methods applicable to high-quality
training programs with the participation of enterprises. Support and encourage
forms of training under orders placed by enterprises and attract enterprises to
more actively participate in human resource training. The costs of training and
retraining human resources shall be deductible expenses when determining income
subject to CIT. -
Effectively implement training and retraining programs for improving the
quality of human resources for the private sector; encourage administrative
divisions to use their lawful resources for proactively supporting training
programs for development of human resources in accordance with their
socio-economic development orientations. -
Provide training and retraining programs for 10.000 chief executive officers; mobilize
the participation of successful business people in training, sharing
experiences, inspiring, and providing practical and effective assistances for
business people. -
Increase education of and training in creative skills, STEM, foreign languages,
and digital skills across all education levels to respond to the demand for
high-quality human resources associated with the development of science and
technology, innovation, and entrepreneurship. 4. Promote science, technology, innovation, digital transformation
and green transformation, and efficient, sustainable business practices in the
private sector -
Drastically implement Resolution No. 57-NQ/TW. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. - Allow
enterprises to record 200% of actual R&D expenses as deductible expenses
when determining income subject to CIT. Introduce support policies on
investment costs in machinery procurement and technological innovation, costs
of digital and green transformation, and sustainable and circular business
costs through CIT deductions or donations from funds. -
Enterprises may retain up to 20% of income subject to CIT to establish funds
for the development of science and technology, innovation, digital
transformation, and R&D. These funds may be used for in-house R&D or
outsourced R&D through outcome-based contracting. -
Private enterprises and organizations may use state-owned laboratories, testing
rooms, design support rooms, and shared research equipment, and centers for
testing, measurement, inspection, and verification of the State to develop
products at reasonable fees. -
Introduce policies on CIT exemption and reduction applied to startups, venture
capital management companies, and startup support intermediaries from the date
on which they incur CIT. Exempt PIT and CIT on income from the transfer of
contributed capital or the right to capital contribution to startups. Grant PIT
exemption and reduction to experts and scientists working at startups, R&D
centers, innovation hubs, and startup support intermediaries. - The
State shall prioritize resources for the development investment of innovation
hubs used for incubation for research, experimentation, development, and
technology transfer with a view to support innovative enterprises and startups. 5. Improve connectivity among private enterprises, and
between private enterprises with state-owned enterprises and FDI enterprises -
Develop enterprise linkages by industrial clusters, value chains, and supply
chains. Encourage large enterprises to lead domestic supply chains and connect with
SMEs and household businesses. Support the development of industrial clusters,
especially supporting industry, manufacturing, agricultural and food
processing, IT, and creative industry. Recognize technology transfer, product
testing support, technical assistance, knowledge sharing, human resource
training, and the use of goods and services from SMEs by large enterprises as
key criteria for State preferential policies. The costs incurred by large
enterprises of personnel training and retraining for SMEs participation in
supply chains shall be deductible expenses when determining income subject to
CIT of such large enterprises. -
Encourage financial and credit institutions to fund private enterprises
operating in value chains and supply chains. -
Urgently implement support policies in R&D, training, consulting, trade
promotion, and technology transfer. Provide assistance for enterprises to
obtain certificates that conform to industry standards as required by export
markets, and participate in value chains and supply chains. The State shall
provide consulting and trade promotion services to connect FDI enterprises with
domestic enterprises in key industrial zones, economic zones, and free trade
zones. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. 6. Form and rapidly develop large enterprises, medium-sized
enterprises, and regional and global private economic groups -
Increase the participation of private enterprises in projects of national
significance; the State shall proactively introduce policies for project
commissioning, limited bidding or direct contracting, or offer preferential and
incentive policies to encourage the private sector to cooperate with the State
in strategic sectors, key national scientific research projects and tasks (such
as high-speed railways, urban railways, spearhead industries, energy
infrastructure, digital infrastructure, green transport, defense and security
industries...), and urgent and critical tasks. Find solutions to promote
private enterprises to expand investment in, provide high-quality healthcare
and education services and develop the cultural and entertainment industries. -
Diversify and improve the effectiveness of cooperation models between the State
and the private sector through models of public-private partnership (PPP),
public leadership - private management, public investment - private management,
private investment - public use in economic infrastructure, cultural-social
infrastructure, information technology, and communications on the basis of
using socio-economic efficiency as the primary criterion for selection.
Urgently develop and implement a Program for the development of 1.000 exemplary
enterprises pioneering in science and technology, innovation, digital and green
transformation, high-tech industry, and supporting industry. -
Develop and implement a “Go Global” Program, focusing on support in terms of
market, capital, technology, brand, distribution channels, logistics,
insurance, export performance incentives, consulting, legal services, business
and trade dispute settlement, purchase/sale and acquisition, and connectivity
with multinational corporations. 7. Substantively and effectively assist micro and small
enterprises and household businesses - Review
and perfect the regulatory framework regarding individual business operations;
minimize disparities and create favorable conditions in terms of management and
financial-accounting regimes to encourage household businesses to convert into
enterprises. Increase digitalization, transparentization, simplification in
respect to accounting, taxation, insurance, etc so that household businesses
may easily follow with a view to facilitate the conversion into enterprises.
Cease to impose fixed tax on household businesses by 2026. - Grant
free access to digital platforms, shared accounting software, provide legal
consulting services, training in business management, accounting, taxation,
human resources, and law for micro and small enterprises, household businesses,
and individual businesses. -
Effectively implement the National Comprehensive Financial Strategy, and
promote access to and use of financial products for micro and small
enterprises, household businesses with priority given to enterprise/ household
business owners who are youth, women, vulnerable groups, ethnic minorities,
enterprises and household businesses in mountainous, border, and island areas,
and inclusive business models creating social impact. 8. Emphasize business ethics, promote social
responsibility, vigorously foster entrepreneurial spirit, and facilitate
business people to participate in national management ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. -
Promote the entrepreneurial spirit across society; foster and encourage
entrepreneurial spirit and innovation among all citizens. Promptly incorporate
entrepreneurship training programs into educational institutions, strongly
encouraging the entrepreneurial spirit among students. - Honor,
commend, and reward exemplary and advanced business people who efficiently and
sustainably do business, fulfill social responsibilities, and actively
participate in community activities. Mobilize the participation of outstanding,
dedicated and visionary business people in national management. -
Establish a close, substantive, open, and sincere relationship between CPV
committees at all levels, government and enterprises. Specifically, state
management agencies must proactively and diligently address issues and
obstacles faced by private enterprises within their jurisdiction; and promptly
report to competent authorities on issues beyond their jurisdiction; promote
the role of enterprises and business associations in giving opinions and
critiquing policies in honest, timely, and essential manner. Strictly prohibit
the manipulation and exploitation of policies and the abuse or corruption of
officials. - Private
enterprises and business people must proactively transform their business
thinking, be dynamic and creative, maintain resilience, nurture willpower and
aspirations, continuously learn, improve capacity and qualities, accumulate
knowledge and experience, perseverance, legitimately create wealth, and
contribute to the homeland and the nation. -
Constantly consolidate and enhance the role, functions, tasks, and operational
efficiency of associations and organizations representing enterprises and
business people to protect their rights and legitimate interests; participate
in the formulation and critique of the CPV's and State's socio-economic
development policies, and supervision of the implementation thereof. -
Introduce specific and feasible policies concerning the development of the Ho
Chi Minh Communist Youth Union and the CPV to enterprises and business people;
promulgate appropriate mechanisms and regulations for CPV organizations in
enterprises to enable outstanding employees to become communist party members. IV- IMPLEMENTATION 1. The CPV Committee of the National Assembly shall lead and
direct the review and perfecting of laws on private sector development;
increase supervision of compliance with regulations. 2. The CPV Committee of the Government shall: (1) Direct the
formulation of specific and special mechanisms and policies for submission to
the National Assembly at the 9th meeting of the 15th National Assembly (on May
2025); and develop an action program for implementation of this Resolution. (2)
Cooperate with the CPV Committee of the National Assembly to promptly
institutionalize all guidelines and policies stated in this Resolution and
allocate sufficient resources for implementation thereof; and promulgate the
National Assembly's Resolution on private sector development in the 9th meeting
of the 15th National Assembly, specifying specific, feasible, and effective
preferential mechanisms and policies. (3) Take charge of preparing briefing
materials and cooperate with the Central Propaganda and Mass Mobilization
Committee in disseminating such materials immediately after the National
Assembly ratifies the resolution regarding specific mechanisms and policies. ... ... ... Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh. 4. The CPV Committees of the Vietnam Fatherland Front and
central mass organizations shall lead and direct the development of programs
and plans for providing guidance and mobilizing the people to implement the
Resolution; promote its supervisory and social criticism role, participate in
the formulation of laws, mechanisms and policies on private sector development. 5. The Central Propaganda and Mass Mobilization Committee
shall take charge of and cooperate with the CPV Committee of the Government and
relevant agencies in provide advice for the Politburo and the Secretariat on
increasing the dissemination of the Resolution. 6. The CPV Committee of the Government shall take charge of
and cooperate the Central Policy and Strategy Committee and Central Committee's
Office, central-affiliated CPV Committees and local CPV Committees in
monitoring, assessing the implementation results of the Resolution; and report
any emerging issue and practical demand to the Politburo for direction. This
Resolution shall be disseminated to all CPV cells. ON BEHALF OF THE POLITBURO
GENERAL SECRETARY
To Lam
Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/05/2025 về phát triển kinh tế tư nhân do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
22.006
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|